Hát Dô Liệp Tuyết (Bài 1): Vượt qua lời nguyền để gìn giữ di sản cha ông truyền dạy
Làn điệu do Đức Thánh Tản truyền dạy
Hát Dô là loại hình diễn xướng dân gian độc đáo, phát tích ở vùng đất Lạp Hạ ven sông Tích (nay là xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, TP Hà Nội) gắn với lễ hội đền Khánh Xuân. Làn điệu hát Dô được gắn với tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh – vị thần đứng đầu “tứ bất tử” trong đời sống văn hoá của người Việt Nam. Ngày 19/2/2024, chính quyền và nhân dân xã Liệp Tuyết đã chính thức đón bằng công nhận hát Dô là Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia.
Nghệ nhân Nhân dân (NNND) Nguyễn Thị Lan – người có công khôi phục lại hát Dô chia sẻ với Dân Việt rằng: “Tích xưa kể lại, trong một lần ngao du qua vùng ven sông Tích, Đức Thánh Tản Viên thấy đất ruộng phì nhiêu, con người chăm chỉ đã bày cho cách gieo lúa trồng ngô trên những thửa ruộng có phù sa bồi đắp. Ngài dạy người dân đắp đê, làm thuỷ lợi. Sau đó, ngài rời đi và để lại lời hứa sẽ quay lại vào mùa lúa chín”.
Từ đó trở đi, mùa lúa chín năm nào người dân xã Liệp Quyết cũng mong chờ ngày Đức Thánh Tản trở lại. Đúng 36 năm sau, ngài trở lại nơi xưa, thấy người dân đã biết bảo ban nhau làm lụng, mùa màng bội thu. Năm ấy, dân làng mở hội múa hát tưng bừng, xây lên đền Khánh Xuân và mở hội hát mừng. Ngài lại dạy cho người dân cách hát bài bản. Từ đó, làn điệu hát Dô ra đời.
Còn theo những ghi chép từ “Khánh Xuân điện thần tích” đã có trên 270 nơi thờ tự Đức Thánh Tản Viên. Vào ngày 12/9, ngài đến Lạp Hạ (xã Liệp Tuyết ngày nay), thấy phong cảnh đẹp, gái trai hát hay liền cho dựng Xuân Ca cung để nghỉ ngơi và mở yến tiệc suốt 3 ngày. Ngài chia dân làm 6 giáp, đặt làm 6 bộ Xuân Ca phường, lại cử điển quan dạy hát. Nhớ ơn vị thần mang lại cuộc sống no đủ, nhân dân trong vùng cứ 36 năm mở hội một lần (bằng đúng số năm Đức Thánh Tản quay trở lại).
Hát Dô là loại hình diễn xướng dân gian độc đáo chỉ có ở Liệp Tuyết. Ảnh: Viện VHNTQG.
Theo NNND Nguyễn Thị Lan, hát Dô có trên 20 làn điệu có âm hưởng dân ca mang tính nghi lễ với các thể loại: Hát Thờ, hát Chúc, hát múa Bỏ bộ. Hát Dô có sự kết hợp giữa âm nhạc và vũ đạo làm nên đặc sắc của một loại hình văn hóa tổng hợp.
Vào năm làng mở hội, từ tháng Tám âm lịch đã mở cửa đền làm lễ xin thánh cho mở sách hát. Các thôn tuyển chọn các nam thanh nữ tú, không có “bụi” (tang ma, lao lý) vào tập hát. Sau khi hết hội, dân làng lại làm lễ xin cất sách vào tráp, đúng 36 năm sau mới được mở lại.
Trong đội hình múa hát, có 1 – 2 người làm “cái hát” (lĩnh xướng, chỉ huy), 8 – 20 nữ làm “con hát” (bạn nàng) để đồng ca và múa phụ họa. “Bạn nàng” tóc vấn đuôi gà, cổ đeo chuỗi hạt vàng, mặc áo năm thân đóng mớ ba, đi dép cong, cầm quạt. Trên ngón tay đeo nhẫn còn có một túi vải màu hình múi cam, có tua chỉ ngũ sắc. “Cái hát” xướng, “con hát” vừa hát vừa múa phụ họa nội dung từng đoạn như chèo đò, bắn cung, hái hoa, dệt cửi…
Lời ca trong hát Dô có nội dung ca ngợi công đức của Tản Viên Sơn Thánh, tôn vinh giá trị văn hóa, lịch sử và tinh thần cộng đồng của người dân vùng lúa nước, tình yêu đôi lứa,… NNND Nguyễn Thị Lan cho biết: “Một thời làn điệu hát Dô nổi tiếng khắp xứ Đoài. Từng lời thơ mộc mạc, gần gũi, thanh cao. Toàn bộ đời sống sinh hoạt hằng ngày của người dân xã Liệp Tuyết chúng tôi đều được thể hiện trong từng lời hát Dô”.
Vượt qua lời nguyền để khôi phục hát Dô
Khác với các vùng quê khác, người dân lớn lên, thẩm thấu và ngấm dần câu dân ca của địa phương mình ngay từ lúc còn nhỏ, thì tại Liệp Tuyết, những năm hát Dô chưa được khôi phục, người dân thậm chí… chưa từng được nghe hát Dô bao giờ. Có một lời nguyền rằng, nếu hát Dô vào các ngày thường mà không phải dịp lễ hội tại đền Khánh Xuân, sẽ bị “Thánh quở”, dẫn đến bị “cấm họng” (câm), thậm chí là mất mạng.
Speak Your Mind